Đề bài : Có ý kiến cho rằng “truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Hãy phân tích hai truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm
Nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm “đối với tôi, văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát ly, hay sự quên. Trái lại văn chương là một thú khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng tao, có thể vừa tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Đúng như vậy! Văn chương nghệ thuật luôn hướng tới cuộc sống con người, từ đó đưa đến cho chính con người những giá trị cao đẹp, những bài học “trông nhìn và thưởng thức”. Điều đó lại càng đúng đắn hơn với thể loại truyện ngắn, bởi nói như nhà văn Nguyễn Kiên nó “vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân một chân lý giản dị của mọi thời”. Bàn về vấn đề này, đã có ý kiến cho rằng “truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Minh chứng rõ nhất cho quan niệm đó chính là truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.
Mỗi loại hình văn nghệ ra đời đều có những tác động riêng đến với con người. Mĩ thuật tạo ra cái đẹp từ những nét vẽ, mảng mầu, âm nhạc đem đến cái hay từ tiếng hát, lời ca. Kiến trúc, ấy gây ấn tượng bởi những thiết kế đến tinh vi… còn văn chương hay cụ thể hơn chính là chuyện đã “có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn”. Điều đó khẳng định, chuyện phản ánh được hiện thực thời đại với những vấn đề nổi cộm, bức thiết nhất trên một phạm vi rộng. Không chỉ vậy, “chuyện còn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể”. Truyện phản ánh hiện thực nhưng thường không hời hợt, phó quát một cách chung chung, mà luôn hướng đến những mảnh đời, những số phận cụ thể để phản ánh hiện thực. Và ở chuyện còn mang một đặc trưng mà ít tìm thấy ở các thể loại khác, đó là hướng đến, “có những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Truyện thường đi sâu vào thế giới nội tâm để cảm nhận được hết mọi diễn biến trong tình cảm và nhận thức của con người, từ đó khái quát nên giá trị của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn. Như vậy, quan niệm về truyện của ý kiến trên đã nêu lên được vai trò cũng như yêu cầu quan trọng với nội dung truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại ngắn gọn, dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng một nội dung sâu rộng. Vì thế nhà văn cần biết nắm bắt, lựa chọn, phản ánh những vấn đề bản chất tiêu biểu, nhưng phải mang tính rộng lớn, phổ cập của hiện thực thông qua những số phận cụ thể, thậm chí cần đào sâu vào nội tâm để biến những trang văn thành trang đời.
“Truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Quan niệm trên hoàn toàn chính xác, bởi nó đã dựa trên cơ sở lý luận của truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung. Chuyện thường hướng tới khắc họa một hiện tượng đời sống, một khoảnh khắc nhân sinh, hay một lát cắt hiện thực. Do vậy, chuyện thường có ít nhân vật để nhà văn đi sâu vào khám phá cụ thể. Kết cấu của truyện thường không phức tạp, có chuyện diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế và xoay quanh một tình huống có tính chất chủ đạo. Bởi vậy, tác giả có cơ hội đi sâu vào đời sống nội tâm con người để khám phá. Hơn nữa truyện chứa nhiều những chi tiết cô đúc, lối hành văn mang nhiều ẩn ý cũng góp phần giúp nó biểu thị được tâm lý con người. Truyện ngắn gọn, cô đọng nhưng thể loại truyện có những phẩm chất thẩm mỹ đặc trưng, tập trung vào khoảnh khắc mà ý nghĩa cuộc sống đậm đà nhất, ngắn gọn, hàm xúc mà có khả năng khái quát cao về hiện thực. Phản ánh được bê sâu của đời sống đề sâu tư tưởng và tấm lòng của nhà văn về sâu, về tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ. Không chỉ vậy, quan niệm về chuyện trên còn dựa trên từ thiên chức văn học. Dù có những đặc trưng riêng nhưng chuyện vẫn phải hướng đến sứ mệnh của văn học, phản ánh hiện thực nói được những vấn đề nhức nhối của con người, trân trọng những mơ ước, khát vọng, trân trọng vẻ đẹp nội tâm ẩn sâu trong tâm hồn họ. Có thể nói, truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao chính là hai tác phẩm thể hiện rõ cho đặc trưng của truyện, cũng như minh chứng cho quan niệm trên.
Bàn về văn học Standal đã viết “văn học là tấm gương đời sống xã hội”. Đúng như vậy! Một tác phẩm văn học chân chính luôn bắt nguồn từ hiện thực đời sống con người. Hiểu được quy luật đó, nên mặc dù là nhà văn lãng mạn hay hiện thực thì Thạch Lam và Nam Cao cùng đề cao yếu tố này trong quá trình sáng tác. Đến với truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam ta đã bắt gặp hình ảnh của một phố huyện, một miền đất, miền đời bị quên lãng. Trên cái nền khổ đau, nghèo đói lần lượt hiện ra những kiếp người sống lay lắt, mòn mỏi đến đáng sợ. Đó là chị Tý với gánh hàng nước, đó là bác siêu với những bát phở ế hàng, đó là bác Xẩm với tiếng đàn run lên bần bật, hay đó là chị em Liên với gian hàng ế khách… Kiếp sống của họ diễn ra đều đều, họ chỉ tồn tại chứ không phải là sống, họ như bị bắt sống chứ không phải tự nguyện để sống. Cuộc sống của họ như một màn kịch không có sự thay đổi, người thay đổi cảnh, ngày nào họ cũng hiện ra buồn bã, thiếu Sức sống và lặp lại y nguyên hành động ngày hôm trước. Sống trong cái “ao đời phẳng lặng”, đó đã có biết bao mơ ước, bao suy nghĩ bị dìm chết, con người dần dần cũng bị chai sạn, vô cảm dẫn đến lãng quên mịt mù trước cuộc đời.
Hãy đến với “Chí Phèo: của nhà văn Nam Cao, nhà văn phản ánh toàn diện bộ mặt ăn thịt người của xã hội thực dân, với những mối quan hệ trong làng Vũ Đại. Xã hội đó đã đẩy những người lao động chân chất, vào con đường lưu manh hóa dẫn đến bi kịch đau đớn, bị cự tuyệt quyền làm người. Đầu tiên là các mối quan hệ phức tạp ở cái đất “quần Ngư tranh thực”. đứng đầu là cụ Bá Kiến, sau đó là bọn cường hào ác bá và cuối cùng là người dân nghèo khổ ấy, người dân bị những mối quan hệ chi phối. Khi cần lũ cường hào, Ác bá liên kết với nhau, áp bức trong làng, nhưng lúc không cần đến nhau thì “ngấm ngầm cho nhau ăn bàn”. Đó là nguyên nhân dẫn đến nỗi khó khăn, nhọc nhằn của dân làng. Hơn nữa cậy quyền, cậy thế bọn người có thế lực tiêu biểu là cụ Bá Kiến đã đẩy người nông dân vào con đường lưu manh tha hóa mà tiêu biểu là Chí Phèo. Sinh ra vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự chăm sóc của dân làng Vũ Đại, Chí trở thành một người hiền lành và có lòng tự trọng cao. Nhưng chỉ vì một cơn ghen vô cớ, Chí Phèo đã bị bá kiến để vào tù. Sau 7, 8 năm ra tù, hắn dần dần là một kẻ lưu manh, một thằng răng đá, một con vật lạ, con quỷ dữ mà ai cũng xa lánh. Gặp Thị Nở khao khát hoàn lương nhưng cuối cùng bị từ chối hắn đau đớn, tự vẫn. Hiện thực cuộc sống trong Chí Phèo được Nam Cao phản ánh rất rõ, hình ảnh làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Đọc Chí Phèo, ta như được trở về với xã hội với số phận của những con người thời đó vậy.
Chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, nhưng do hạn chế về dung lượng nên chuyện thường “đi sâu vào những mảnh đời cụ thể”. Điều đó vừa giúp tư tưởng, chủ đề được sáng rõ, vừa thể hiện tấm lòng của nhà văn đối với con người. Đến với “hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã đi sâu khám phá cuộc sống con người, mà tiêu biểu là liên một đứa trẻ nghèo. Khi còn nhỏ Liên sống ở Hà Nội, dù không phải giàu có nhưng cũng được sung sướng “được đi chơi bờ Hồ, uống những cốc nước xanh đỏ”. Đó là những kí ức đẹp đẽ của Liên mà cô không thể nào quên được. Nhưng do thầy mất việc Liên phải về một Phố huyện nghèo nàn để sinh sống. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống tuổi thơ sung sướng của Liên giờ đã chấm dứt. Cái nghèo đã cướp đi niềm vui và quyền lợi của một đứa trẻ như Liên. Cuộc sống cơm áo gạo tiền đã trói buộc tiên vào với những hàng tre, từ sáng sớm tới đêm khuya. Liên sống mòn mỏi, trông chờ, đợi đến một bát phở trong phố huyện nghèo cũng không dám mơ ước. Nhưng bên cạnh đó, Liên cũng là một đứa trẻ biết yêu thương, cảm động đối với cuộc sống của người khác, mặc dù mình chẳng khá giả gì. Tuy không được miêu tả nhiều như Liên nhưng những mảnh đời như chị tí, bác siêu, bác xẩm, Cụ Phi… cũng góp phần thể hiện được con mắt yêu thương của Thạch Lam.
Còn đến với Chí Phèo của Nam Cao, những mảnh đời mà ông chú ý đến nhiều chính là người nông dân, với một cuộc sống nghèo khổ đến tận cùng. Nhưng ông khác đặc biệt ở chỗ, ông không đi quá sâu vào cuộc sống ấy, mà ông đi sâu vào quá trình tha hóa của Chí Phèo, là một ví dụ điển hình. Sinh ra bị bỏ rơi ở trước lò gạch cũ, được anh thả ống lươn nhặt về nuôi dưỡng. Chí lớn lên vì được dân làng Vũ Đại nuôi nấng. Tuy tuổi thơ bất hạnh, nhưng chí phèo không xấu xa mà còn rất chăm chỉ, hiền lành và giàu lòng tự trọng. Chỉ vì cơn ghen vô lý bác Kiến, đã đẩy Chí Phèo vào tù. Với sự nhào mặn của nhà tù, Chí Phèo trông khác hẳn. Bề ngoài nhìn như thằng rặng đá “cái đầu trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất cong cong…”. Không chỉ thay đổi về nhân hình mà chí còn bị nhuộm đen về nhân tính. Hắn chìm trong những cơn say, từ đây hắn đã làm biết bao tội ác với những con người đã nuôi nấng hắn. Chí cứ vậy cho đến khi gặp Thị Nở. Thị đã dẫn Chí về với cuộc sống, nhưng do định kiến từ chối Chí Phèo tuyệt vọng giết chết kẻ thù của cuộc đời mình và cũng tự kết liễu đời mình. Cuộc đời của Chí Phèo là một mảnh đời cụ thể, nhưng đã bao quát được con đường mà những mảnh đời khác thường đi phải như Binh Chức, Năm Thọ… đó chính là cái Quý cái hay mà chỉ có thể loại truyện đó được.
Mang trong mình những đặc trưng riêng nên chuyện còn có khả năng đi sâu vào “diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Đến với truyện ngắn, yếu tố này rất được chú trọng bởi “thước đo tài năng người nghệ sĩ chính là khả năng miêu tả tâm lí nhân vật”. Đọc “hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng của nhân vật liên được tác giả chú trọng miêu tả rất chi tiết và tinh tế. Tâm trạng đó được biểu hiện trước hết ở cảnh ngày tàn. Trước những cảnh sác đất trời thay đổi, liên có tâm trạng buồn man mác “rồi mắt chị bóng tối ngập đày dần”. Dường như Liên cảm nhận được cuộc sống đang chậm lại với những chuyển biến tinh tế của tạo hóa. Khi nhìn về con người, Liên động lòng thương những đứa trẻ con nhà nghèo, tuy sợ nhưng vẫn thấy tội cho Cụ Phi và biết chia sẻ với chị tí. Màn đêm buông xuống với sự chiến thắng của bóng tối, Liên dường như lại thấy buồn thấm thía. Thấy đứa những đứa trẻ con khác vui chơi liên thèm thuồng, Nhớ về ngày xưa. Từ chỗ buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, giờ đây là những quan sát đợi chờ hoài niệm, nuối tiếc và khát khao nhưng đã hoàn toàn bị tàn lụi. Hiện tại và quá khứ như những đợt sóng vỗ vào tâm hồn, để rồi buồn hơn da giết hơn. Để an ủi mình Liên chỉ còn cách nhìn lên bầu trời với ông thần nông, con vịt trời, giải ngân hà… với thế giới cổ tích nhiệm mầu.
Khi đoàn tàu đêm về, cũng là lúc tâm trạng của Liên được bộc lộ rõ nhất. Liên háo hức đợi chờ đoàn tàu như đợi chờ Phút Giao thừa thiêng liêng. Khi nhìn đoàn tàu, Liên không trả lời câu hỏi của em trong tâm hồn cô còn xúc động vẫn chưa lắng xuống “Liên lặng lẽ mơ tưởng Hà Nội xa xăm Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Những câu chữ gieo vui như nốt nhạc. Có thể trong phút giây ấy khát vọng đổi đời đã được đánh thức trong một tâm hồn còn vô tư ngây thơ “tàu đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên khác hẳn với ánh sáng ngọn đèn chỉ Tí và ánh lửa bác siêu”. Dù biết Tàu hôm nay không đông, nhưng không sao miễn là họ ở Hà Nội về. Và khi tàu đi Liên vẫn còn đứng nhìn, “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
Nếu như “hai đứa trẻ” là tâm trạng của Liên trước một thời khắc ngắn ngủi, thì chí phèo diễn ra rất rõ tâm trạng của Chí Phèo khi đã được Thị Nở dẫn về cuộc đời. Sau cái đêm say rượu, Ăn nằm với Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí Phèo giường như khác hẳn. Hắn cảm nhận được mọi diễn biến, mọi sắc thái bên ngoài cái túp lều ẩm thấp của hắn. Hắn nghe được tiếng chim hót, nghe được tiếng Anh thuyển chài đuổi cá trên sông, tiếng người đi chợ bán vải về. Hắn nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Hắn dường như đang sợ rượu, sợ chính mình và sợ tương lai của mình. Chí Phèo nghĩ đến cái đói, cái rét rồi ốm đau, nhưng còn đáng sợ hơn điều đó chính là cô độc. Và trong cơn suy nghĩ ấy thì chị nở chạy sang với liều thuốc giải cảm và giải rượu, bát cháo hành. Chí cảm động đến rưng rưng nước mắt và ăn cháo hành. Hắn nghĩ chắc những ai đã ăn mới biết cháo hành ngon. Đối với hắn, bát cháo hành đó còn là hương vị tình thương dẫn hắn về với quãng đời lương thiện. Hắn lại trở về với ước mơ ngày xưa, có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải”. Chao ôi! đọc xong ta mới hiểu Chí Phèo tâm tình biết bao. Nhưng khi bị Thị Nở từ chối, lúc đầu không hiểu nhưng sau hắn nhận ra, Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức. Chí Phèo hiểu được bi kịch của cuộc đời mình. Hắn như cứ ngửi thấy hương cháo hành thoang thoảng, hắn tìm đến rượu mong quên đi mọi thứ, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng tỉnh càng đau đớn, tuyệt vọng. Chỉ định tìm đến giết chết “con đĩ nở” và con “khọm già” nhà nó nhưng bước chân lại đưa chí đến nhà Bá Kiến. Chí Phèo rút dao giết lão Bá Kiến và cũng kết liễu luôn đời mình. Chính chân lý đã đưa Chí Phèo hiểu ra được cuộc đời mình, nên tuy Chí Phèo có chết cũng là minh chứng cho sự trở về với lương thiện, không muốn làm kiếp thú vật.
Hai nhà văn, với hai phong cách và xu hướng khác nhau, nhưng Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện được những đặc trưng của truyện qua các sáng tác của mình. Quan niệm chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người, không chỉ nêu lên đặc trưng của truyện, mà còn đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và Tiếp nhận văn chương. Đối với người cầm bút, phải không ngừng mài dũa tài năng khổ luyện trong lao động chữ nghĩa, gắn bó sâu sắc với cuộc đời và con người. Đối với độc giả, để có thể tiếp nhận, khám phá được bề sâu của tác phẩm, độc giả phải sống hết mình với tác phẩm. Tích cực đồng sáng tạo cùng với nhà văn.
Thanh Thảo đã từng cho rằng “văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng và chiều sâu đáng kinh ngạc”. Văn chương nói chung và thể loại truyện nói riêng của thật đã làm được điều đó. Bởi vì, nó đã phản ánh hiện thực đi sâu vào mảnh đời cụ thể và cả những chuyển biến sâu xa trong tâm hồn con người, từ đó thể hiện tấm lòng cao cả của mỗi nhà văn. Chính vì vậy nên “hai đứa trẻ”, của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao xứng đáng là hai truyện ngắn đặc sắc, sống mãi với thời gian, đến với bạn đọc cả hôm nay và mai sau.