Đề bài.
La
Mác tin nhà thơ pháp tâm sự, “ Thế nào là thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ
thuật đó là sự giải thoát của lòng tôi”.
Anh
chị có suy nghĩ gì về lời tâm sự trên? Hãy dựa vào sự hiểu biết về bài thơ “Vội
Vàng” để làm sáng tỏ suy nghĩ của.
Bài làm.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng quan niệm,
“Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để
rung động con tim”. Đúng như vậy, thơ là sự phối hợp nhịp nhàng, hài hòa giữa
nghệ thuật và nội dung, giữa ý và tình, giữa tính là tính họa và tình cảm, cảm
xúc… Thiếu một trong những yếu tố trên, Thơ có đi vào lòng người, đánh mất đi bản
chất của nó bấy lâu nay. Thơ là sự biến hóa kỳ diệu của nghệ thuật và quan trọng
hơn đó là còn là sự bộc bạch, tiếng nói tâm hồn của thi sĩ. Bàn về điều này,
Lác mắc tin nhà thơ pháp tâm sự. Thế nào là thơ? “đó không phải chỉ là một nghệ
thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi”, và minh chứng rõ nhất cho điều đó
chính là bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu.
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng cho rằng, thơ
là bà chúa của nghệ thuật”. Cũng đồng quan điểm đó nên Lác mát tin cũng đã khẳng
định “thơ không chỉ là một nghệ thuật”. Thơ là nghệ thuật, là diệu nhất của
ngôn ngữ hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu… như sông hồng đã từng nói “thơ là họa,
là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”. Nhưng đâu chỉ dừng lại ở đó, “thơ
còn là sự giải thoát của lòng tôi”. Thơ chính là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm
của nhà thơ với bao vui buồn, mơ ước, hi vọng… trước cuộc sống. Như vậy Ý kiến
của Lác mác tin, khẳng định thơ không chỉ là sản phẩm là diệu của nghệ thuật
ngôn từ, mà thơ là phương tiện giao tiếp bộc bạch, tình cảm của người nghệ sĩ với
đời.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng phát biểu,
“thơ hay, là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”. Lời phát biểu về thơ của Trần
Đăng Khoa cũng như của Lacmactin tuy hai nhưng bản chất lại hướng về một vấn đề.
Dễ dàng nhận thấy cả hai ý kiến và rõ hơn là ý kiến của Lác Mác tin đều nói được
lên đặc trưng cơ bản của thơ. Những nhà thơ lớn là những bậc thầy về ngôn ngữ,
những bài thơ hay phải có ngôn ngữ cô đọng, giàu cảm xúc, giàu sức gợi, hình ảnh
đẹp, phong phú. Nói như sóng hồng đó “là họa, là nhạc”. Nhưng ngôn ngữ chỉ là
những xác chữ vô hồn, nằm thẳng đơ trên trang giấy. Nếu không có tình cảm, cảm
xúc chủ quan của nhà thơ. Lê Quý Đôn đã từng cho rằng “thơ phát khởi từ lòng
người ta”. Thơ chỉ tràn ra khi các cung bậc cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ dâng
cao độ, đòi hỏi được giãi bày, chia sẻ, cảm thông. “Thơ là người thư kí trung
thành của những trái tim”, nó phản ánh hiện thực xã hội thông qua một tình cảm
mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất, thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng tạo. Mặt
khác người đọc tìm đến với thơ là tìm đến với tiếng nói đồng điệu, đi tìm hồn
mình trên trang viết nhà thơ, nói như Tố Hữu “thơ là một điệu hồn đi tìm những
hồn đồng điệu”. Vì vậy nếu không có tình cảm, cảm xúc hoặc tình cảm, cảm xúc chỉ
nhàn nhạt, không chân thành, sâu sắc, ám ảnh thì sẽ không thể tạo nên sự đồng cảm
ở độc giả, cũng có nghĩa là thơ sẽ thiếu sức sống. Bài thơ “Vội vàng” của Xuân
Diệu là một bài thơ hay, lay động người đọc bởi những giá trị về ngôn ngữ nghệ
thuật, cũng như những tư tưởng, tình cảm thật sâu sắc, mới mẻ và chân tình.
Xuân Diệu, vị đại diện xuất sắc của
phong trào thơ mới, có đóng góp vô cùng to lớn cho quá trình hiện đại hóa văn học.
Nhắc đến Xuân Diệu, người ta nhớ ngay đến một phong cách rạo rực, tha thiết với
đời “chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cũng chính vì phong cách sống
ấy nên thơ Xuân Diệu đầy tràn sự sống, sự hưởng thụ, sự tận hưởng và tận hiến.
Đọc thơ Xuân Diệu người ta đọc không bắt gặp nỗi buồn u sầu, thời thế như các
nhà thơ cùng thời, mà đó là sự yêu đời, khát khao giao cảm với đời qua một hệ
thống nghệ thuật mới mẻ, độc đáo. “Vội Vàng”, là một trong những bài thơ như vậy!
Mỗi câu mỗi chữ trong bài thơ đều thể hiện rất rõ ràng, tài năng nghệ thuật
cũng như tình cảm dạt dào của Xuân Diệu.
Đầu tiên “Vội Vàng”, là một bài thơ hay
bởi những cảm xúc được biểu hiện trong một hệ thống ngôn ngữ giàu tính nghệ thuật.
Đọc “vội vàng”, người đọc bắt gặp ngay một hệ thống động từ mạnh để diễn tả cảm
xúc dạt dào, mãnh liệt.
“Tôi
muốn tắt nắng đi,
Cho
màu đừng nhạt mất
Tôi
muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi”.
Động từ “tắt”, “buộc”, thể hiện rất rõ cảm
xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt đến cuồng nhiệt của nhà thơ. Xuân Diệu thật
táo bạo, thần thái thật mạnh mẽ, muốn làm thay việc của tạo hóa, của ông trời.
Muốn tắt nắng cho màu đừng nhạt phai, muốn buộc gió cho hương sắc dừng bay đi.
Phải yêu đời lắm, tha thiết lắm mới có cách nghĩ, cách cảm tới vậy. Hay đến đoạn
thơ cuối ta bắt gặp một hệ thống động từ cũng mạnh mẽ của nhiệt, và đầy sức sống
của một tâm hồn rạo rực.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy Ánh
Sáng,
Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào người”.
Tình cảm của tác giả dành cho cuộc đời
có lẽ thể hiện rõ nhất ở đây. Nhà thơ muốn “ôm” nhưng chưa đủ, rồi muốn “riết”
nhưng chưa gần, muốn “say”, muốn “thâu” và “cắn”. khát khao giao cảm với đời một
cách mãnh liệt trái tôi Xuân Diệu đã đưa người đọc hay nhất cùng với cái động từ
Tăng Tiến thật mới mẻ độc đáo. Hệ thống động từ quả thật đã đưa bài thơ trở
thành một dòng cảm xúc mạnh mẽ yêu đời đến cuồng nhiệt say mê mà chưa từng bắt
gặp ở phong cách thơ mới nào.
Bên cạnh hệ thống động từ mới mẻ là một
hệ thống tính từ được dùng để diễn tả sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình
xuân.
“Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất”.
Hay:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh
sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”.
Xuân Diệu Nhìn mọi thứ mọi vật xung
quanh bằng cặp mắt xanh non biếc rờn. Điều đó được nhà thơ thể hiện rõ qua các
tính từ gợi hình, gợi cảm, “xanh gì”,
“tơ”, “phơ phất”, “mơn mởn”… nhà thờ quan sát một cách tỉ mỉ nhìn đâu
cũng là một bữa tiệc của thiên nhiên sự hưởng thụ thiên nhiên khi trong con người
Xuân Diệu nó không phải ở mức bình thường mà phải ở độ “chếnh choáng”, “đã đầy”
và “no nê”. Việc sử dụng thành công một hệ thống tính từ khiến bài thơ Vội Vàng
trở nên tăng tính gợi hình, gợi cảm; lòng thơ cũng dễ đi vào lòng người hơn.
Sự tài năng trong việc sử dụng nghệ thuật
hình ảnh và ngôn từ của Xuân Diệu trong bài thơ còn được thể hiện qua những
hình ảnh mới lạ, độc đáo.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật”.
“Tuần tháng mật của ong bướm”, cũng như “tuần tháng mật” của con người. Mùa
xuân với đầy hoa thơm trái ngọt với đôi cánh mong manh, dập dùi đi kiếm mật,
trong mắt của Xuân Diệu lúc đó như chính là “tuần trăng mật”, quãng đời đẹp nhất
của bọn chúng. Rồi để nói về vẻ đẹp tuyệt vời của mùa xuân nói chung và tháng
giêng nói riêng, Xuân Diệu đã dùng hình ảnh “cặp môi gần” để diễn tả. Lấy cái
vô hình để so sánh với cái hữu hình lấy thiên nhiên so sánh với con người… hình
ảnh lạ và hấp dẫn ấy như điểm sáng của bài thơ hấp dẫn tâm hồn người đọc. Bên cạnh
đó còn là những cụm từ đầy tính diễn tả mang sắc riêng trong ý thơ, tình thơ của
Xuân Diệu. Như “Xuân hồng”, “tháng giêng ngon”, “mùi tiễn biệt”… đều mang sức
lôi cuốn mê hoặc lòng người.
Cuối cùng tính nghệ thuật của bài thơ
còn được thể hiện ở sự chuyển đổi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển sang “ta”, để
khẳng định cái tôi riêng của tác giả. Ban đầu là cái tôi Xuân Diệu, cái tôi
khao khát yêu đời, nhìn cuộc sống bằng sự đắm say, tha thiết. Cũng chính vì điều
đó nên cái tôi không muốn chỉ là cái tôi, cái tôi muốn lan tỏa, muốn kêu gọi mọi
người, muốn thúc giục mọi người. Lúc đó cái tôi đã biến thành cái ta chung. Đó
là cái ta của sự tận hưởng và tận hiến, cái ta trong sự yêu đời, thiết tha,
mãnh liệt. Từ cái tôi mang một cách nhìn riêng, Xuân Diệu đã hoà chung vào cái
ta to lớn. Sự thay đổi đại từ đó càng khẳng định tài năng nghệ thuật đặc biệt của
mình.
Thơ là sự thể hiện của nghệ thuật ngôn từ.
Thế nhưng, bên cạnh đó thơ còn là “tiếng nói của tri âm”, của tấm lòng. Thiếu
đi tình cảm thì thơ chỉ là những xác chữ vô hồn nằm thẳng đơ trên trang giấy.
Thơ là hồn cốt của thơ, là cái đức hạnh, cái để người ta sống lâu dài với thơ.
Mở bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu không phải là ngoại lệ. Đọc “vội vàng” điều
mà người đọc bắt gặp, đầu tiên đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khát
khao giao cảm với đời bằng tất cả sự sôi nổi, mãnh liệt, qua việc miêu tả bức
tranh xuân non, tình tứ tràn đầy sự sống.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của Yến Anh này đây khúc tình si
Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.
Ong bướm dập dìu bay đi kiếm mật, như
chúng đang hưởng thụ khoảng thời gian đẹp nhất “tuần tháng mật”. Hoa ngũ lên
khoe màu sắc sặc sỡ trên tấm thảm xanh gì của đồng nội. Đó là vẻ đẹp thanh cao,
mà tươi sáng, giản dị, mà ấn tượng… Mùa xuân đến là mùa của sự nảy nở, đâm chồi,
nảy lộc, cành lá non tơ, phơ phất trước làn gió rung rinh.
Ánh nắng của xuân sang thì dịu nhẹ như
“ánh chớp hàng mi”, của người con gái đương xuân, nhẹ nhàng và ấm áp. Trên cái
nền hòa quyện đẹp đẽ giữa màu sắc, cảnh vật và ánh nắng ấy. Bỗng có tiếng của bầy
chim yến, chim Oanh cất vang khúc tình si, say đắm lòng người. Tất cả, đã cho
thi sĩ có cảm giác như ngày nào thần vui cũng gõ cửa ghé thăm nhanh đến những bữa
tiệc trần thế đầy nhựa sống, tình tứ và quyến rũ. Mọi thứ đã khiến người thi sĩ
ấy phải thốt lên.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Mùa xuân đã là một mùa đẹp nhất trong
năm, nhưng tháng giêng lại là tháng đẹp nhất trong mùa xuân. Xuân Diệu, đã cảm
nhận mọi thứ trong khoảng thời gian này. Tháng giêng có vẻ đẹp như cặp môi của
người con gái trẻ, cặp mắt nhìn đời của Xuân Diệu thật tươi trẻ, mát lành cho
thấy ông hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Hoài Thanh nhận xét quả
không sai “với Vội Vàng”, Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và sua ai nấy để hạ giới”.
Cũng chính
vì lòng yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết nên Xuân Diệu đã bộc lộ nỗi u hoài, lo
lắng trước sự hữu hạn của đời người, trong cái vô hạn của đất trời.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian?
Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn!
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Xuân Diệu, nhìn thời gian trôi qua đầy
tính mất mát. Nó chưa đến mà cảm nhận nó đã qua, nó còn non mà cảm nhận nó sẽ
già. Thi sẽ quá yêu đời, yêu cuộc sống trần thế, nên luôn cảm nhận và đi trước
thời gian. Xuân Diệu cứ muốn nó mãi mãi xanh tươi, nhưng đó là điều không thể.
Tấm lòng của nhà văn bao la, nhưng lượng chứa của đất trời chỉ là hữu hạn, ngày
xuân đến rồi qua nhanh, tuổi trẻ đang còn đó rồi mau chóng sẽ biến mất. Tác giả
đã lấy thước đo thời gian là tuổi trẻ, đời người chỉ là một khoảnh khắc nhỏ bé
của thời gian vô tận. Chính vì vậy mà tuổi trẻ lại càng ngắn hơn, chỉ chớp mắt
là qua nhanh. Người xưa quan niệm, thời gian tuần hoàn, Xuân đi rồi xuân lại, đời
người hết một kiếp, lại sang một kiếp mới, vì vậy họ sống ung dung, thanh nhàn.
Nhưng Xuân Diệu lại quan niệm hoàn toàn khác, Ông cho rằng thời gian là tuyến
tính, một đi là không trở lại. Trời đất thì còn mãi với non sông, nhưng tuổi
xuân thì sẽ úa tàn theo năm tháng. Xuân Diệu, vì thế đã bộc lộ nỗi lòng của
mình.
“Nên Bâng Khuâng tôi tiếc cả Đất Trời
Mùi tháng năm đều sớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thân tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hồn vị nỗi phải bay đi,
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng Sợ độ phai tàn sắp sửa”.
Cái trôi nhanh của thời gian, đã làm cho
người thi sĩ này bỗng trở nên hụt hẫng, bâng khuâng. Dường như với tâm hồn nhạy
cảm Xuân Diệu, đang cảm nhận bức tranh trần thế tươi đẹp của mùa xuân, thì bỗng
lo lắng “độ phai tàn sắp sửa”. Ông cảm nhận được hết mọi thứ đang diễn ra xung
quanh mình. Sông núi sớm vị của sự chia ly, ngọn gió xinh hồn cán bay đi, chim
sợ hãi tiếng hót vang… Mọi vật từ vui thì lại khoác trên mình cái buồn bã, chán
nản có phần não nề.
“Chẳng bao giờ, ôi chẳng
bao giờ nữa…”
Tiếng than như khuấy động lòng người về
một nỗi buồn u hoài, nuối tiếc.
Biết thời gian là trôi tuyến tính, vì vậy
Xuân Diệu đã thể hiện được quan niệm nhân sinh, mới mẻ, sống tích cực có ý
nghĩa trong từng khoảnh khắc của cuộc đời, đặc biệt là tuổi trẻ “tôi không chờ
nắng hạ mới hoài xuân”. Muốn được như vậy, thì ý thức cá nhân phải được đánh thức,
phải dám sống, sống thật, sống mãnh liệt say mê, sống tận hưởng, tận hiến.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và có dạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh
sáng
Cho no nê thành sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”.
Sự sống mới bắt đầu, mới nhú lên cái
tôi, Xuân Diệu giờ đây không bộc lộ một mình mà đã hòa chung vào cái ta, tôi
chúc mọi người yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Đầu tiên là âm, nhưng đối với Xuân
Diệu nói riêng gần như thế vẫn còn xa, xa lắm, nên cái tôi cũng là cái ta “riết
theo mây đưa và gió lượn”, để được gần hơn, kề hơn, hưởng thụ rõ hơn. Cao hơn một
chút chính là sự say sưa với thiên nhiên và tình yêu, rồi muốn thâu thật dài
trong một cái hôn nhiều. Sự hưởng thụ đó đã đến ở mức no nê, mức chếnh choáng
thế nhưng đối với cái tôi đầy sự ham muốn thì đó vẫn chưa đủ. Đỉnh cao của sự
hưởng thụ chính là “cắn”. Cắn vào tươi đẹp nhất, xanh ngon nhất, tình tứ nhất để
hưởng thụ rõ nhất. Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Qua
đây ta càng hiểu được rõ hơn phong cách thơ táo bạo, mới mẻ của Xuân Diệu mà
Chu Văn Sơn đã từng nói “xuân diệu chỉ có thể là…Xuân Diệu”.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng
khẳng định, “thơ sinh ra từ rất sớm, và sẽ kết bạn với con người đến ngày tận
thế”. Phải chăng, chính vì sứ mệnh và chức năng của thơ là sự giãi bày như Lác
mác tin tâm sự, nên thơ mới có sức sống như vậy. Ý kiến của Lác mác tin, đã là
tiêu chí của một bài thơ hay. Những cảm xúc tình cảm mãnh liệt, chân thành mang
tính thẩm mỹ, cùng sự sáng tạo trong hình thức biểu hiện còn làm nên sức sống
cho thơ. Ý kiến của Lác Mác tin, còn đặt ra vấn đề trong việc sáng tác và tiếp
nhận thơ ca. Đối với người cầm bút, đó là bài học quý giá phải có tâm hồn nhạy
cảm với đời thì mới có thể thâm nhập vào thế giới vi diệu, bí ẩn của thơ ca.
Còn với độc giả, khi đọc thơ cần lắng lòng mình xuống để hiểu lòng người, cảm
nhận hết được những gì tinh tế mà thi sĩ đã đem lại cho chúng ta.
Xuân Diệu đã từng nhận xét, “thơ hay lời
thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Một bài thơ được coi là tuyệt phẩm khi được phối hợp
hài hòa giữa nghệ thuật đặc sắc và cảm xúc mãnh liệt. Lời tâm sự của Lác Mác
tin đã thể hiện rõ điều đó. Và đến “với Vội Vàng” điều đó lại càng được tô đậm
thêm, càng được sáng tỏ thêm về tiêu chí của một bài thơ hay. Chính vì lẽ đó,
nên vội vàng sẽ vượt qua bước chân của thời gian, giữ vững giá trị của nó đến với
bạn đọc cả hôm nay và mai sau./