ĐỀ SỐ 49 - TP1 (2020)

 ĐỀ 49 - TP1 (2020)

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu:

Đây là một câu chuyện xảy ra giữa thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ (kéo dài từ năm 1929 tới nửa sau thập niên 30) tại một nơi nghèo nhất trong thành phố New York, có diễn ra vụ xét xử một phụ nữ ăn trộm bánh mì vì đói.

Một buổi tối lạnh lẽo tháng 1/1935 tại một phường khó khăn nhất thuộc thành phố New York, một phiên tòa nhanh diễn ra. Bị cáo là một phụ nữ rách rưới, bị buộc tội ăn trộm một ô bánh mì. Khuôn mặt bà âu sầu, ấn giấu vẻ xấu hổ.

Quan tòa hỏi: “Bị cáo, có đúng là bà đã ăn trộm bánh mì không?”

Người phụ nữ cúi đầu và lúng túng trả lời: “Đúng vậy! Thưa quan tòa, tôi thực sự đã ăn trộm bánh mì!”

Quan tòa lại hỏi: “Động cơ ăn trộm bánh mì của bà là gì? Có phải vì đói khát không?”

“Đúng ạ!” Người phụ nữ ngẩng đầu lên, đôi mắt nhìn vị thẩm phán và nói: “Đúng là tôi đói. Con rể đã bỏ rơi gia đình, con gái tôi thì bị bệnh còn hai đứa cháu nhỏ đang chết đói. Chúng đã mấy ngày hôm nay không được ăn rồi. Tôi không thể trơ mắt nhìn chúng chết đói được, chúng vẫn còn quá nhỏ!”

Nghe người phụ nữ nói xong, mọi người xung quanh bắt đầu lầm rầm những tiếng bàn tán.

Tuy nhiên, người chủ cửa hàng nơi bị trộm bánh mì thì không đồng ý tha thứ. “Đây là một vùng kém an ninh, thưa Ngài, ” ông nói. “Bà ấy phải bị trừng phạt để làm gương cho những người khác.”

Vị quan tòa thở dài, nhìn về phía người phụ nữ và nói: “Bị cáo, tôi phải làm việc theo lẽ công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà có hai lựa chọn: nộp phạt 10 đô la hoặc chấp nhận bị giam 10 ngày.”

Vị quan tòa này thực chất là thị trưởng của thành phố New York khi đó, ông Fiorello La Guardia. Sau khi đọc tuyên án trên, ông đồng thời cũng đưa tay vào túi, lấy ra một tờ tiền và thả vào chiếc mũ của mình. Ông nói lớn, “Đây là 10 đô la mà tôi sẽ trả cho án phạt này. Ngoài ra tôi phạt mỗi người trong phòng xét xử này 50 cent, đó là số tiền phạt cho sự thờ ơ của chúng ta khi ở cùng khu phố mà lại để cho một người phụ nữ phải đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu. Ông Baliff, hãy đi thu tiền và đưa tặng cho bị cáo.”

Ngày hôm sau, tờ báo thành phố New York đưa tin đã có 47.5 đô la được gửi đến cho người phụ nữ khốn khó kia. 50 cent trong đó là do người chủ cửa hàng tạp hóa đóng góp, ngoài ra còn có khoảng vài chục bị cáo khác đang chờ xét xử, và các cảnh sát có mặt khi đó, họ đều vinh hạnh được đóng góp 50 cent và đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt.

(Nguồn: Internet, Quà tặng cuộc sống — Câu chuyện tuần thứ 55)

Câu 1. Văn bản trên sử dụng phương thức biểu đạt nào? Đặt nhan đề cho văn bản.

Câu 2. 10 đô la mà Ngài thị trưởng trả cho án phạt trong câu chuyện có phải là để đảm bảo công bằng hay không? Vì sao?

Câu 3. Chỉ ra ý nghĩa của con số 10 đô la và 47.5 đô la.

Câu 4. Nếu đứng trên cương vị của vị quan tòa, anh/chị sẽ phán xử vụ án trên như thế nào?

II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm)

Mark Twain từng nói rằng: “Lương thiện là một loại ngôn ngữ phổ quát của thế giới, nó có thể khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được”. Hãy chia sẻ suy nghĩ của mình từ câu nói của Mark Twain và câu chuyện trên. (Trình bày bằng đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ)

Câu 2 (5.0 điểm)

Viết về dòng sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận: “Có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng có khi: “Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”

(Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập 1, tr. 187 và 191, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007)

Bằng hiếu biết của mình, anh/chị hãy phân tích những vẻ đẹp trên của dòng sông Đà. Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.


HƯỚNG DẪN GIẢI

Nội dung

Điểm

ĐỌC - HIỂU

3.0

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt: Tự sự.

- Dựa trên việc xác định nội dung văn bản, xuất phát từ yêu cầu của việc đặt nhan đề văn bản, thí sinh có thể tự do đặt nhan đề cho văn bản này. Có thể tham khảo một vài gợi ý:

- Phiên tòa đặc biệt/ Một quan tòa nhân hậu.

- Một vụ án nhân văn.

0.5

Câu 2:

- 10 đô la mà ngài Thị trưởng trả cho án phạt trong câu chuyện trước hết là để đảm bảo công bằng.

- Nhưng trên hết, nó để đảm bảo tính nhân văn trong xã hội Mỹ (dù đang trong thời kì Đại suy thoái).

0.5

Câu 3:

Ý nghĩa của con số 10 đô la và 47.5 đô la:

- 10 đô la: đảm bảo công bằng và duy trì trật tự xã hội cần thiết. Tiền này do ngài Thị trưởng trả, bởi lẽ duy trì trật tự xã hội và đảm bảo công bằng, trước hết là trách nhiệm của nhà cầm quyền mà ngài Thị trưởng là đại diện.

- 47.5 đô la: tình thương, giá trị sẻ chia và nhân văn cao cả giữa người với người; cơ sở để thiết lập một xã hội hòa bình và văn minh. Số tiền này do những người dự phiên tòa phải góp vì xây đắp giá trị nhân văn và tình thương, sự sẻ chia là trách nhiệm, đạo đức của toàn xã hội, đòi hỏi mỗi người phải chung tay góp sức.

0.5

Câu 4:

HS chia sẻ cách xử lý theo hiểu biết và quan điểm cá nhân, có thể theo hướng sau:

- Tuyên án dựa trên mức độ vi phạm pháp luật của bị cáo. Có thể đưa ra mức phạt cụ thể.

- Tuy nhiên, chú ý đến tình tiết giảm nhẹ: vì tình thương con người mà ăn cắp một vật không quá giá trị. Hành động đẹp và nhân văn ấy xứng đáng được trân trọng. Có thể tuyên án tha bổng cho bị cáo.

1.0

LÀM VĂN

7.0

Câu 1:

Mark Twain từng nói rằng: “Lương thiện là một loại ngôn ngữ phổ quát của thế giới, nó có thể khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được”. Hãy chia sẻ suy nghĩ của mình từ câu nói của Mark Twain và câu chuyện trên.

2.0

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.

0.25

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Chia sẻ suy nghĩ về câu chuyện và câu nói của Mark Twain: giá trị và sức mạnh của lương thiện, của tình thương yêu con người.

0.25

c. Triển khai vấn đề nghị luận

 

* Giải thích: “Lương thiện là một loại ngôn ngữ phổ quát của thế giới, nó có thể khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được”

- “Lương thiện là một loại ngôn ngữ phổ quát”: lương thiện là bản chất chung phổ biến của loài người. “Ngôn ngữ phổ quát” tức là sự lương thiện có thể xem như phương tiện giao tiếp của cộng đồng, khiến con người đến với con người.

- “Nó có thế khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được”: sức mạnh cảm hóa lớn lao của lương thiện và tình yêu thương.

Ý kiến khẳng định bản chất xã hội của lương thiện và giá trị, sức mạnh của lương thiện đối với việc tác động sâu sắc tới tâm hồn, nhận thức của con người, giúp cảm hóa con người.

0.25

* Phân tích - bàn luận

- Người xưa nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Con người ta, khi sinh ra, tính vốn thiện). Điều đó thể hiện niềm tin vào khả năng lương thiện của mỗi người.

- Mỗi con người khi sinh ra luôn chứa đựng trong mình lòng trắc ẩn, một trong những biểu hiện cơ bản của lương thiện.

- Giá trị và sức mạnh của lương thiện, của tình yêu thương:

+ Tạo ra niềm vui cho bản thân và người xung quanh.

+ Giúp người lương thiện nhận được sự quý mến và trân trọng của mọi người; làm giàu vốn sống và dễ nhận được sự quan tâm, trợ giúp khi gặp khó khăn.

+ Gắn kết, hòa giải và làm tốt đẹp hơn mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội; hình thành một xã hội nhân văn, đạo đức; làm cơ sở để phát triển bền vững.

0.5

* Bài học: sống lương thiện, nhân văn, biết yêu thương, quan tâm và sẻ chia

0.25

d. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.

0.25

e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

0.25

Câu 2:

Bằng hiểu biết của mình, anh/chị hãy phân tích những vẻ đẹp trên của dòng sông Đà. Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

5.0

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài, giới thiệu được vấn đề. Thân bài, triển khai được vấn đề. Kết bài, khái quát được vấn đề.

0.25

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

- Phân tích vẻ đẹp sông Đà trong trích đoạn.

- Làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

0.25

c. Triển khai vấn đề nghị luận

Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.

0.25

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phấm và nêu vấn đề cần nghị luận

- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp với phong cách độc đáo, tài hoa và uyên bác.

- Tùy bút Người lái đò sông Đà là thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi lên miền Tây Bắc của Tổ quốc để tìm kiếm, khám phá chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm hồn người lao động Tây Bắc.

- Tác phẩm đã xây dựng thành công một sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình trong cảm nhận tài hoa của Nguyễn Tuân.

0.5

* Cảm nhận về hình tượng con sông Đà

 

- Dòng sông hung bạo

+ Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích gần nhau, làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt giữa hai vách đá dưng đứng hiểm trở: Hẹp đến nỗi mà “lúc đúng Ngọ mới nhìn thấy ánh mặt trời”, có thể “nhẹ tay mà ném hòn đá qua bên kia vách”. Ở đây “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”. Ở đoạn này tác giả đã dùng tri thức ngược sáng của điện ảnh để cảm nhận, tạo cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

+ Hung bạo ở cái dữ dằn của gió - nước: Lại qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”.

→ Nghệ thuật: sử dụng động từ mạnh, nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “xô”: xô đá, xô sóng, xô gió... làm cho sự hung bạo của sông Đà trở nên dữ tợn hơn.

+ Hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “Trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là con sông Đà không khác gì một loài hung thú đi đến đâu là gieo rắc hiểm nguy đến đó. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy... Bè gỗ nghêng ngang qua đây vô ý là bị cái hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mươi phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Cách so sánh, ví von, mô tả của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của Sông Đà mà thót tim lại.

+ Nhưng con Sông Đà hung bạo nhất ở mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thủy trấn vô cùng hiểm trở:

Ÿ Trước hết là âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: Con Sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lên, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng động từ mạnh làm cho hình ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác vô cùng khôn khéo, ranh ma.

Ÿ Thứ hai là sự hung bạo và dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn nấp để gieo rắc kinh hoàng cho ông lái đò. Đá ở đây chia thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh. Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá dàn bày thế trận, tảng nào, hòn nào, “trông cũng ngỗ nghịch” và như những vị tướng “có vị trông oai phong lẫm liệt; “có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao chiến”. Có vị “lại lùi một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.

+ Những tri thức về quân sự, về võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh... của tác giả được dịp vận dụng tài tình để diễn tả sự độc ác, xảo quyệt hết sức nguy hiểm của con thác khi nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gẫy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.

=> Kết luận: Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy: thiên nhiên Tây Bắc thật hùng vĩ và tình yêu của nghệ thuật đối với sông Đà thật bao la. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân khiến người đọc liên tưởng, hình dung dòng sông như nhà văn đang đứng giữa sông nước, giữa đá mà chụp lại các cảnh đó.

1.0

- Tính cách trữ tình

Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Tác giả tha thiết gọi con sông Đà là cố nhân đi xa thì nhớ nhung, gặp lại thì mừng vui khôn xiết.

+ Và vì yêu sông Đà nên tác giả không bỏ qua cơ hội ngắm nhìn “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia...”. Đó là lúc nhà văn nhìn con sông Đà bằng con mắt thẩm mỹ, văn hóa để phát hiện ra những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng của con sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này. Ở những quãng yên tĩnh, thì sông Đà quả thật rất thơ mộng như một người đàn bà kiều diễm với vẻ đẹp "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Nghệ thuật nhân hóa đã được mở ra tuyệt đối làm người đọc dường như không còn nhận ra đây là con sông hung bạo nữa mà là một mỹ nhân đang làm duyên làm dáng với Tây Bắc. Thật gợi cảm biết bao!

+ Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của Sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng. Qua làn mây mùa xuân, Sông Đà xanh màu ngọc bích. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, không có sự pha tạp có thể hiểu là trong vắt chứ nó không gợn thứ sắc màu đùng đục như màu xanh canh hến của sông Gâm và sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu “Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này tạo cho người đọc không ghê rợn trước màu đỏ mà ngược lại rất thích thú bởi màu nước sông Đà mang vẻ đẹp của màu đỏ rất đáng yêu trên mặt người “bầm đi vì rượu bữa”.

+ Trữ tình và đáng yêu hơn nữa khi Nguyễn Tuân dùng những hình ảnh dịu dàng trong sáng nhất để tả đôi bờ sông Đà. Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một “cố nhân”. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý - Trần - Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm lộc đâm chồi. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông.

- Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Nghệ thuật: ngôn ngữ đặc sắc, sử dụng nhiều ngôn ngữ của nhiều lĩnh vực; văn phong khoa học; các biện pháp tu từ so sánh nhân hoá sử dụng thường xuyên gợi sức liên tưởng và cảm xúc mạnh mẽ...

1.0

* Nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân

Tùy bút Người lái đò Sông Đà đã thể hiện rõ nét các đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

- Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình.

- Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật: Con sông Đà hung bạo, hiểm ác; đẹp mĩ lệ.

- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng tác để tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.

- Ngôn ngữ trong tác phẩm:

+ Từ ngữ sắc sảo in đậm dấu ấn riêng. Ngữ nghĩa, ngữ điệu biến đổi, chuyển hóa: “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, nắng giòn tan, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Tác giả còn sáng tạo những từ ngữ mới, cô đọng, giàu ý nghĩa.

+ Diễn tả đa dạng, nhiều góc cạnh. Câu thật ngắn phối hợp với câu thật dài: đoạn tả chặng cuối vượt vòng vây thứ ba, đang viết câu chất chồng ý (Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền... xuyên nhanh, vừa xuyên vừa...), đã kết lại bằng một câu rất gọn, biểu thị ý hoàn thành: Thế là hết thác.

+ Có khi vừa thể hiện mặt hung dữ, vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối tượng miêu tả, vừa ném ra những chi tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ).

1.0

* Đánh giá chung: Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân, dù trong bất cứ bối cảnh nào, đối tượng nào, cũng biết chọn lấy những khía cạnh độc đáo, riêng biệt để đưa vào trong tác phẩm của mình.

0.5

e. Sáng tạo

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

0.25