Các dạng so sánh thường gặp.
Kiểu bài so sánh văn học
yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện:
– So sánh các tác phẩm
– So sánh các đoạn tác
phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi)
– So sánh các nhân vật
văn học.
– So sánh các tình huống
truyện.
– So sánh các cốt truyện.
– So sánh cái tôi trữ tình giữa các bài thơ.
– So sánh các chi tiết
nghệ thuật.
– So sánh nghệ thuật trần
thuật…
Quá trình so sánh có thể
chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những
tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của
những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học
Cách làm bài dạng đề so
sánh
Vì là một bài nghị luận
nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết
bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với
kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về một đoạn
trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
– Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước
này)
– Giới thiệu khái quát về các đối tượng so
sánh
THÂN BÀI:
Học sinh có thể chọn một
trong hai cách sau
Cách 1:
Làm rõ đối tượng thứ nhất
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập
luận phân tích).
2. Làm rõ đối tượng thứ
2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập
luận phân tích).
3. So sánh: nét tương đồng
và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ
thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao
tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh).
4. Lý giải sự khác biệt:
thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng
đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…(
bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân
tích).
Cách 2:
Giới thiệu vị trí, sơ lược
về hai đối tượng cần so sánh.
2.So sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa
hai hai nhiều đối tượng theo từng tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ
thuật. Ở mỗi tiêu chí tiến hành phân tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được
điểm giống, điểm khác.
Học sinh có thể dựa vào
một số tiêu chí sau để tìm ý (tất nhiên tùy từng đề cụ thể có thể thêm, hoặc bớt
các tiêu chí)
– Tiêu chí về nội dung:
đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm (tầm vóc, vai trò, ý nghĩa của hình tượng),
cảm hứng, thông điệp của tác giả….
– Tiêu chí về hình thức
nghệ thuật: Thể loại, hệ thống hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu, giọng điệu, biện
pháp nghệ thuật…
Sau khi chỉ ra điểm giống,
điểm khác cần lí giải vì sao có điểm giống, điểm khác này.
Với cách làm này các
tiêu chí so sánh được thể hiện một cách rõ ràng và phân tích kĩ hơn tuy nhiên
đòi hỏi học sinh phải có khả năng tổng hợp và tư duy rất cao để tìm ra các tiêu
chí so sánh ( nếu không sẽ bị mất ý) nên cách làm này theo chúng tôi chỉ nên áp
dụng với đối tượng học sinh giỏi. Trong khuôn khổ của chuyên đề, tất cả các đề
thực nghiệm đều được chúng tôi triển khai theo cách làm thứ nhất để phù hợp với
đông đảo đối tượng học sinh phổ thông cũng như đáp án của Bộ giáo dục và đào tạo.
KẾT BÀI:
– Khái quát những nét giống
nhau và khác nhau tiêu biểu
– Có thể nêu những cảm
nghĩ của bản thân.