Đăng ở mục Nghị luận văn học >>văn học
10>> nhan đề “Tỏ lòng”
TỎ LÒNG
(Thuật hoài – Phạm Ngũ
Lão)
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Hào khí Đông A
Hào
khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại
thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai
hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy
khi cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên - Mông).
Hào
khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của
niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng
muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững bền mãi mãi của non sông
đất nước mình.
Hào
khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện
cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào
khí Đông A: Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao,Tụng giá hoàn kinh sư (Phò
giá về kinh) của Trần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,…
2. Mang đậm dấu ấn của cả một thời
Bài
thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình tượng người anh
hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ
cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và
quyết thắng.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. So sánh câu
thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múa giáo" chưa thể hiện được
hết ý nghĩa của hai từ "hoành
sóc"
"Hoành sóc"
là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ
"hoành sóc" đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.
Trong
câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều
rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của
sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng
năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây
trường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một
không gian, thời gian như thế thì thật là kì vĩ. Con người hiên ngang ấy mang
tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.
2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai
cách hiểu
Thứ
nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh
nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu
là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả
về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những
vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm
Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí
thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.
3. Tỏ lòng là
bài thơ nói chí
Đó
là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món "nợ công danh" mà nhà thơ nói
đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp
cho đời) vừa có ý "chưa hoàn thành
nghĩa vụ đối với dân, với nước". Theo quan niệm lí tưởng của trang nam
nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong
nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nước. Ở phần cuối của
bài thơ, tác giả vẫn "thẹn"
vì mình chưa được như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh
để giúp nước giúp đời.
4. Trong câu
thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể
hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng
Phạm
Ngũ Lão "thẹn" vì chưa có
được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (Khổng Minh - đời Hán) để
giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục
giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những
day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có
giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước,
non sông.
5. Người xưa
nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu
trách"
Câu
nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ "Tỏ lòng". Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể
cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần.
Âm hưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và cũng chính
âm hưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm thường,
ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh
thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị
lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.
(Nguồn: từ Internet)