ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
Đề 1:
Phân tích đoạn thơ mở đầu đoạn trích Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa
ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ
bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng
tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
MỞ BÀI
1. Dẫn dắt vào vấn đề:
- “Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai
Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biết
bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu.
- Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh
kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo
ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn
Khoa Điềm lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi,
đơn sơ, bình dị .
2. Tác giả, tác phẩm:
- Vị trí: Nguyễn
Khoa Điềm là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Phong cách
điển hình:
+ Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm
tư, ý thức của một công dân yêu nước về vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ
trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc
+ Thơ ông còn thể
hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiệm của
chính mình.
3. Vấn
đề nghị luận:
- Xuất xứ, vị
trí của đoạn thơ:
Đoạn trích mang tên Đất
Nước thuộc phần đầu chương V, trường ca Mặt
đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên năm
1971, in lần đầu 1974.
- Nội dung cơ
bản:
+ Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các
thành thị bị tạm chiếm miền Nam,
+ mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng
về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.
- Nội dung đoạn
trích:
+ Đất nước là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn
học, đặc biệt là trong thơ ca hiện đại.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tư của
mình về đất nước một cách thật độc đáo.
+ Đoạn thơ mở đầu được xem là những cảm nhận riêng của
tác giả về đất nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm với một
giọng thơ thiết tha, sôi nổi.
THÂN BÀI:
1.
Đất Nước có từ bao giờ?
- Nguyễn Khoa Điềm tập trung
thể hiện những khám phá mới mẻ về đất nước trên ba phương diện: chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng
của không gian địa lí và chiều sâu của truyền thống văn hóa dân gian.
- Khi khám
phá đất nước ở chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm
không dựa vào sử liệu hay những khái niệm trừu tượng mà chọn những hình ảnh
tự nhiên, bình dị để cảm nhận về đất nước. Đất Nước, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy
chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà,
đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo,
hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà…
- Bằng giọng tâm tình, dịu
ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận,
suy tưởng của mình về cội nguồn sâu xa của đất nước.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có
trong những cái "ngày xửa ngày xưa…" mẹ thường hay kể”
+ Lịch sử sâu thẳm
của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các
vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng
viết trong “Bình Ngô Đại
Cáo”:
“Như nước Đại
Việt ta từ trước
Vốn xưng nền
văn hiến đã lâu
Núi sông bờ
cõi đã chia
Phong tục Bắc
– Nam cũng khác
Từ Triệu,
Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
mà bằng những hình ảnh gần
gũi, thân quen, bằng cách nói rất dung dị.
+ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Hình như nhà thơ không cố tình
làm thơ. Nhà thơ như chỉ muốn nói lên điều mà bất kì ai cũng có thể nói lên.
Nhà thơ nói lên cho mình mà cũng cho tất cả mọi người, cho tất cả bạn bè cùng
trang lứa với mình.
+ Lắng nghe cho kĩ, người đọc
có thể nghe xôn xao trong câu thơ là cả một niềm tự hào mãnh liệt và niềm biết
ơn mênh mông.
. “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có
rồi”, Đất Nước có trong lịch sử hàng ngàn năm, điều mà không phải bất kì
Đất Nước nào trên mặt đất này cũng có được.
. “Đất Nước đã có rồi”: bất cứ con người Việt Nam khi sinh ra ngay
lập tức đã được bao bọc, đã được nâng niu, chở che trong một cái nôi ấm áp,
thân yêu vô cùng là Đất Nước.
. “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có
rồi”, ta đang có được Đất Nước từ công lao của hàng ngàn thế hệ con người,
với bao nhiêu hi sinh xương máu, bao nhiêu nước mắt và mồ hôi.
+ Từ cảm xúc tự hào và biết
ơn của mình, nhà thơ tìm cho mình những điều khẳng định:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ
thường hay kể”
+ Giản dị và bất ngờ quá, Đất
Nước bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa…”
có nghĩa là Đất Nước được bắt nguồn từ những câu chuyện truyền thuyết xa xưa.
Từ chuyện Lạc Long Quân dựng nên Đất Nước, chuyện Thánh Gióng đánh giặc… Ngoài
ra, hình ảnh “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” gợi hình ảnh đất nước
thanh bình trong những câu chuyện cổ tích. Có tâm hồn Việt Nam nào mà không
được nuôi dưỡng từ những câu chuyện “ngày
xửa ngày xưa” ấy.
+ Nhưng thử hỏi: nếu không có
Đất Nước từ “ngày xửa ngày xưa”, thì làm sao có được những câu chuyện để cho
bây giờ “mẹ thường hay kể”? Mà “ngày xửa ngày xưa” là lúc nào? Là mấy
trăm năm, mấy ngàn năm trước, từ thuở đất trời còn hồng hoang.
- Đất nước còn được cảm
nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử :
“Đất Nước bắt
đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn
lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Trong khoảng thời gian mênh
mông của Đất Nước, nhà thơ muốn tìm đến những thuở đầu tiên khi Đất Nước tượng
hình. Thì cũng giản dị vô cùng:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Phát hiện thật bất ngờ
nhưng cũng thật chính xác. Không biết ngày xưa, ai là người đầu tiên ăn miếng
trầu để rồi có “miếng trầu bây giờ bà ăn”
. Có lẽ con người không hề nghĩ rằng với miếng trầu ấy, cũng bắt đầu một tập
tục Việt Nam, một nét văn hóa Việt Nam. Bắt đầu tạo dựng văn hóa, cũng là bắt
đầu tạo nên Đất Nước. Bởi nếu không có nền văn hóa thì làm sao có thể gọi là
Đất Nước.
+ Qua phát hiện đó, ta thấy
Đất Nước còn là những gì gần gũi, thân quen ngay trong đời sống con người. Hình
ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi ta
nhớ đến câu chuyện cổ tích “Trầu cau”.
. Qua câu chuyện cổ tích ấy,
ta thấy được những nét đẹp trong phong tục tập quán của dân tộc: phong tục
nhuộm răng ăn trầu, phong tục ăn trầu giao tiếp của nhân dân “miếng trầu là đầu câu chuyện”, phong
tục cưới hỏi “miếng trầu nên dâu nhà
người”.
. Đất Nước thật lớn lao kì vĩ
nhưng chẳng phải bắt đầu từ những điều bé nhỏ đó sao!
+ Đất Nước còn lớn lên cùng
truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc”
+ Nhà thơ thật sâu sắc khi
nói đến việc “dân mình đánh giặc” mà
nhắc đến việc “trồng tre”.
. Từ muôn đời nay, con người
Việt Nam trồng tre là để có lũy tre bao bọc làng quê, để có bóng tre xanh mát
rượi con đường làng, để lấy cây tre làm
nên nhà cửa, làm nên những dụng cụ sinh hoạt hàng ngày như chiếc đòn gánh tre, cái cối xay tre, cái chõng tre, chiếc nôi tre, con
sáo diều tre lơ lửng lưng trời…
. Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy
đã viết:
“Tre xanh,
xanh tự bao giờ
Chuyện ngày
xưa đã có bờ tre xanh”
+ Con người Việt Nam trồng
nên cây tre còn để khi cần thì biến cây tre thành vũ khí đánh giặc.
. Câu thơ của Nguyễn Khoa
Điềm phải chăng gợi lên truyền thuyết Thánh
Gióng - Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân
ra khỏi bờ cõi là tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để
bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử.
. Truyền thuyết Thánh Gióng
nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân
ta, đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở
xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên
đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân
khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta
rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
+ Như
vậy, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong
miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh
ta. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta,
mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ
khác.
- Đất
nước còn là phong tục búi tóc thành
cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
+ Bắt
đầu tạo dựng, rồi Đất Nước lớn lên, trong khoảng thời gian đằng đẵng mấy nghìn
năm. Đất Nước đã làm nên biết bao điều, tạo nên biết bao giá trị từ vật chất
cho đến tinh thần. Những chuyện ấy hôm nay vẫn còn đó. Có những chuyện tưởng
chừng như rất nhỏ: “Tóc mẹ thì bới sau
đầu”.
+ “Thì bới sau đầu”, hóa ra cái bới tóc
sau đầu ấy là một một nét đẹp tự nhiên của người mẹ Việt Nam, của người phụ nữ
Việt Nam, một nét đẹp cần thiết bởi “cái
răng cái tóc là góc con người”.
+ Nét
đẹp ấy cũng là nét đẹp góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
(Ca dao cổ)
- Đất
nước Việt Nam còn mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Ý thơ
được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Gừng bao giờ cũng cay, muối bao giờ cũng mặn. Đó là một
giá trị, một đạo lí của gia đình Việt Nam. Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu
tình nghĩa và tấm lòng thuỷ chung son sắt của người Việt Nam.
- Tiếp tục suy nghĩ về những giá trị mà các thế hệ cha
anh đã tạo dựng nên, đến đây nhà thơ lại có một phát hiện bất ngờ mà thú vị:
“Cái kèo, cái
cột thành tên”
+ “Cái kèo, cái
cột” là tên gọi những bộ phận quan trọng trong cấu trúc ngôi nhà truyền
thống Việt Nam:
“Có cây thì dây
mới leo,
Có cột có kèo
mới có đòn tay”
(Ca dao)
+ Như vậy là, từ thuở xa xưa, con người Việt Nam, không
chờ ai dạy bảo, đã biết tự mình làm nên nhà cửa để che mưa trú nắng, ổn định
nơi ăn chốn ở để có thể tồn tại vững bền trên dải đất bên bờ biển Đông quanh
năm đầy nắng mưa giông bão này.
+ Lại còn chuyện này nữa: “Cái kèo, cái cột thành tên”, bởi đó là những tên gọi quen thuộc mà
người Việt Nam ngày trước đã dùng để đặt tên cho con cái mình, những tên gọi
hồn nhiên lấy từ những sự vật quen thuộc, như tên Cột, Kèo, Chanh, Khế, Nụ, Búp, Khoai, Sắn… Đó là những tên gọi
không thể viết bằng chữ Hán, những tên gọi hoàn toàn Việt Nam.
Như thế là từ mấy nghìn năm trước, không đợi tới người
Hán đến đây, dân tộc ta đã có tiếng nói riêng mà bây giờ ta gọi là tiếng mẹ đẻ.
- Tạo nơi ăn chốn ở, tạo nên tiếng nói, tạo nên Đất Nước,
tổ tiên ta còn tạo nên một điều vô cùng quan trọng:
“Hạt gạo phải
một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Với người Việt Nam vốn gắn bó
lâu đời với nền văn
minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng
cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận
về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước
mắt của người lao động.
+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm như gói gọn cả quy trình
lao động vất vả của con người Việt Nam để làm nên hạt gạo qua nghìn đời nay. Để
từ đất mà làm nên hạt lúa, phải “một nắng
hai sương”, bao nhiêu khó nhọc. Rồi từ hạt lúa mà có được hạt gạo để có bát
cơm ăn, còn bao nhiêu công việc phải đổ mồ hôi: “xay, giã, giần, sàng…”, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán
lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng”.
+ Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới
câu ca dao mẹ ru thuở nào:
“Cày đồng đang
buổi ban trưa
Mồ hôi thánh
thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát
cơm đầy
Dẻo thơm một
hạt đắng cay muôn phần”
+ Như vậy thì rõ ràng là từ
mấy nghìn năm trước, con người ở đây đã biết tự mình làm nên hạt gạo để có
miếng ăn hàng ngày cho mình, để cho các thế hệ con cháu vững vàng mà làm nên
Đất Nước, để tạo dựng cho mình một nền văn minh riêng mà các nhà nghiên cứu
ngày nay gọi là “nền văn minh sông Hồng”!
- Kết lại đoạn thơ, Nguyễn
Khoa Điềm khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó”.
+ Đất Nước của bây giờ là “Đất Nước có từ ngày đó”, thuở đó.
- Cách cảm nhận cội nguồn đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần
gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo,
dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc
giả.
-
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng
khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất
nước đã có…”, “Đất nước bắt đầu…”, “Đất nước lớn lên…”, “Đất
nước có từ…” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của
đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người
Việt Nam qua bao thế hệ.
-
Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi
về tình cảm gia đình ruột thịt
thân thương.
+
Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với mẹ, với những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể cho chúng
ta nghe. Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với người bà, với hình ảnh “miếng trầu bà ăn” hàng ngày. Đất Nước
hiện ra trong mối quan hệ nghĩa tình của cha mẹ “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
+
Đất Nước luôn hiện hữu trong hình ảnh của ông bà, cha mẹ, cháu con. Đó cũng
là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như
nhân vật chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm,
rộng bằng nước ta” (Những đứa con
trong gia đình – Nguyễn Thi).
KẾT
LUẬN
-
Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn
hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa
Điềm đã trình bày được một ý niệm về
đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ
ràng, vừa có chiều sâu văn
hoá lịch sử , vừa bình dị thân
quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày.
- Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu
thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.
ĐỀ
RA: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn KHoa Điềm.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa
ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ
bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng
tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương
xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH
I. MỞ BÀI
Đất Nước
là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những
cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu
muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng
những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về
Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn
màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên
sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi
ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất
Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất
Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất
Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc
mẹ thì bới sau đầu
Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái
kèo, cái cột thành tên
Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất
Nước có từ ngày đó…
II. THÂN BÀI
1. Khái quát trước khi phân tích: Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ
này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự
nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước
trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng
trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền
thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
2. Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với
cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có
trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang
lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự
trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
3. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ
diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất
Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất
Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
- Câu
thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa
là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những
câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh
thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của
một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần
thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn
nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta
biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần
con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu
truyện cổ nước tôi
Vừa nhân
hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương
người rồi mới thương ta
Yêu nhau
dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện
cổ nước mình)
- Câu
thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi
nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu
thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong
những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm
thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn
giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa
đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm
răng đen cũng ra đời:
Những cô
hàng xén răng đen
Cười như
mùa thu tỏa nắng
(Hoàng
Cầm)
4. Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn
tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh
giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình
biết trồng tre mà đánh giặc”
- Câu
thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng
Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ
Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
- Truyền
thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm
nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ
giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch
sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn
Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên
mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người
Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng
cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất
khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ
", bởi:
"Nòi
tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên
đã nhọn như chông lạ thường".
5. Bốn câu thơ tiếp theo nhà
thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tụccủa con người Việt:
Tóc
mẹ thì bới sau đầu
Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái
kèo, cái cột thành tên
Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
- Đó là
vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với
phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ
một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:
Tóc
ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi
dài cho rối lòng anh
- Nguyễn
Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động,
chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu
ca dao đẹp:
“Tay
bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”
- Thành
ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng
mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng
càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm
thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của
cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
- Câu
thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục
làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau
làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà
tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành
sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
- Đâu
chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành
ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày
long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao
động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy
trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân
phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào
trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi
vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai
ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo
thơm một hạt đắng cay muôn phần.
6. Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.
- “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày
đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa
nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ
quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa
của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà.
Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời
thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
7. Nghệ thuật:
- Thành
công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân
gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống
nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành
ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết
hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một
đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời
thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong
bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của
một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi
đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trong đoạn trích
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất
Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất
nước mình núi Bút non Nghiên
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng
sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cùng
góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên
ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng,
gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao
ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”
MỞ BÀI
1. Dẫn dắt vào đề:
Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách
mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn
suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một
dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: “Từ dáng
đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: “Ôi!
Việt Nam từ trong biển máu; Người vươn lên như một thiên thần”.
Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã
nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về
nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non
sông đấtnước.
2. Vài nét về tác giả và tác phẩm.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà phê
bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh” trong cuộc
tranh luận với Hoài Thanh năm 1936 – 1969.
- Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng (1974). Bản trường
ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên
các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975
trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu
gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hoà nhập
với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
- Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén,
thể hiện một
chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ
các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ
cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào
chiến trường.
- Chương Đất Nước khai triển có
vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập
trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của
nhân dân” qua các bình diện chủ yếu: Đất
Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước trong chiều rộng không gian
lãnh thổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối
sống tâm hồn, cốt cách dân tộc.
- Tư tưởng “đất nước của nhân dân”
là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. Đoạn trích bình
giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và
cụ thể
sự “hoá thân” của nhân dân vào
đất nước muôn đời.
THÂN BÀI
Trọng tâm của đoạn thơ nằm ở phần lí giải: “Ai làm nên Đất Nước?” và bằng lí giải
đầy sức thuyết phục của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định: Nhân dân làm nên
đất nước, “Đất Nước này là đất nước của
nhân dân”.
a. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới
mẻ về thiên nhiên địa lí của đất nước:
- Để nói lên công lao to lớn của nhân
dân trong quá trình dựng nước và
giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam
thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh
đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hóa
thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc,
suy tưởng của mình: chính nhân
dân đã hoá
thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng.
+ Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không còn
là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn
nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự
“hoá thân” của những con người không tên không tuổi.
Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân
dân, với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch
sử của dân tộc.
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh
ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là
sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước”:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
+ Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân
tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ
nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam.
+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn
là do "những người vợ nhớ
chồng" hoặc những "cặp vợ
chồng yêu nhau" mà "góp
cho", "góp thêm", làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. Núi
Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết
bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời,
bất chấp mọi bão tố của thời gian:
“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ
Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi”
- Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non
Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền
thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay.
+ Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt
hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình
vào đấy:
“Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”
"Nghèo" nhưng “người học
trò” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút
non Nghiên”, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng
chính là truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta.
- Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất
nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh
liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân:
“Ta
như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
cùng với sự
nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao
đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất
Tổ Hùng Vương”
Ở đây, Nguyễn
Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống.
Chính cái "gót ngựa của Thánh
Gióng" đã "để lại"
cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. "Chín mươi chín" núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung
lòng "góp mình dựng đất tổ Hùng
Vương”.
- Cho đến “những
con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng
sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê
hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm
na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm”.
+ “Những con
rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông trên đất nước ta là
do rồng "nằm im" từ bao đời
nay. Nhờ đó mà quê hương ta có "dòng
sông xanh thẳm", thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh
mông biển lúa bốn mùa.
+ Tư tưởng "Đất Nước của nhân
dân" cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với
dân với nước:
"Con cóc con gà quê hương cùng góp
cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc,
ông Trang, bà Đen, bà Điểm"
Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở
thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có "con
cóc, con gà quê hương cùng góp cho".
Những tên làng, tên núi, tên sông như "Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
" là do những con người vô danh, bình dị làm nên.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã
đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi,
“những người dân nào” không ai biết
cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống
hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành “dáng hình xứ sở”. Những địa danh ở
vùng cực Nam đất nước xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng
đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân
dân ta.
+ Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng "Đất
nước của nhân dân" và chính nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm
nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ "góp",
một động từ diễn đạt hành động "cùng
mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung" (Từ điển Tiếng Việt - trang 758)
+ Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú
trước những lí giải của Nguyễn Khoa Điềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá
thân quen lại có khả năng nói được nhiều điều sâu xa như thế. Số phận, cảnh
ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hoá thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm
sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân.
b. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm
đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chất suy tư và triết luận về
sự hoá thân của nhân dân vào đất nước:
- Tính khái quát
của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống
Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử:
“Và ở
đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Ôi Đất
Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những
cuộc đời đã hoá núi sống ta…”
+ Thì ra trên mọi miền Đất Nước
của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng
đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.
+ Chính cuộc đời của cha ông ta
– những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân
tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân - những con người
bình thường, vô danh.
+ Nhưng tầm vóc của Đất Nước và
nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí "mênh mông" mà còn ở dòng
chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” "đằng đẵng".
KẾT BÀI
- Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được
viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá
linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện
và sức khái quát cao.
Đề ra: Phân tích đoạn thơ sau trong
bài thơ Đất Nước của NGuyễn KHoa Điềm:
"Đất là nơi anh đến trường
...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ"
BÀI LÀM
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng
thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ văn hóa
thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường
khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ chương V
trường ca Mặt đường khát vọngđược
hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của
tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân
tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về nội dung và
nghệ thuật sâu sắc nhất:
Đất là nơi anh đến trường
…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ
Như đã nói ở lúc đầu, Đất Nước không ở đâu xa mà ở ngay xung quanh chúng
ta, gần gũi, thân thương quanh ta là cái kèo cái cột, hạt gạo ta ăn hằng ngày,
câu truyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn... Và để làm rõ hơn về Đất Nước, Nguyễn Khoa
Điềm đã tách Đất Nước thành hai thành tố Đất và Nước – một yếu tố thuộc âm, một
yếu tố thuộc dương, để giải thích một cách đơn giản nhưng cụ thể về Đất Nước.
Bốn câu thơ đầu nhà thơ giải thích về Đất Nước theo
lối chiết tự đi từ cái riêng đến cái chung.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm.
Khi Đất Nước được tách ra thành hai thành tố nó gắn với kỉ niệm đáng yêu,
đáng nhớ, thân thuộc của một đời người. Tách thành tố ĐẤT – để chỉ
con đường hằng ngày anh tới trường, là ngôi trường cung cấp hành trang tri thức
cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Tách thành tố NƯỚC – Là
dòng sông nơi em tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh
đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể:
Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt. Khi tách ra thì Đất Nước gắn
với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong cái
ta chung. “Khi ta hò hẹn”, Đất
Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho
tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê
thanh bình yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ… tất
cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm sao. Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất
Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn
trong nỗi nhớ thầm” .
Câu thơ đậm đà chất dân ca ca dao, đặc trưng của văn hóa Việt xưa xa, gợi nhắc
cho ta bài ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu và dễ thương
làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu đôi lứa “Gói một chùm hoa/ Trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng/ Sang
nhà hàng xóm” (Phan Thị Thanh Nhàn)
Tiếp tục tách
hai thành tố Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại lí giải sâu sắc hơn nữa về Đất Nước: Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện
trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ
Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người
Việt :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng
bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng
nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Tác giả cảm nhận Đất Nước trên bình diện không gian
địa lý. Đất Nước
được cảm nhận là “không gian mênh mông”. Có thể hiểu đó là núi sông, bờ cõi, là
Bắc – Trung – Nam một dải. Là đất nước rừng vàng biển bạc. Trong
ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ - "Nơi con chim phượng hoàng
bay về hòn núi bạc” cho đến
biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang - nơi "Con cá ngư ông móng nước
biển khơi". Đó là nơi
dân mình đoàn tụ, phát triển giống nòi và làm ăn sinh sống làm nên non sông gấm
vóc Việt Nam.
Tác giả cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ,
địa lý mà Đất Nước còn gắn với lịch sử: đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”. Nguyễn Khoa Điềm với
một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu
Tiên của dân Lạc Việt. Đó là truyền thuyết:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc
trứng”
Câu truyện cổ “Sự tích trăm trứng” đã ra đời từ lâu đời nhằm lý giải
nguồn gốc của người Việt. Từ câu truyện ấy dân ta muôn đời ta tự hào mình là con
rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Cho nên đất nước luôn tiềm tàng mối
quan hệ giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai: “Những ai đã khuất / Những ai bây giờ”. Những ai đã khuất là những người trong quá
khứ - những con người sống giản dị chết bình tâm, những con người đã có công
dựng nước và phát triển đất nước. Những ai bây giờ là những người trong hiện
tại, đang sống và chiến đấu. Tất
cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” bảo tồn nòi
giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng “Gánh vác
phần người đi trước để lại” .
Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội
nguồn dân tộc “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao “
Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba”. Cho nên tự
trong bản thân nó đã bao hàm lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên. Hai
chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng
liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử
về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt
Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới
nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là
Quê cha đất Tổ Vua Hùng.
Nguyễn Khoa Điềm, qua đoạn thơ trên, đã
nêu những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước, từ chiều sâu của văn hóa
văn tộc, chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất
nước. Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liêu văn hóa dân gian, từ truyền
thuyết lịch sử, phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động của dân tộc ta, kết
hợp với những hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và giàu chất
trí tuệ.
Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan
trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm :
“ Trong anh và em hôm nay,
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Hướng dẫn làm bài
I/ Mở
bài:
-
Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân
dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
-
“Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
-
Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó
và trách nhiệm của mỗi người với đất nước :
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
II/ Thân bài :
- Thật
vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những
phương diện không gian- địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn
Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một
phần Đất Nước”.
+ .Đây là một sự thực mà mỗi người Việt
Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã
hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên,
đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh
thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của
mình.
- Từ việc khẳng định: đất nước hóa
thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính
luận :
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng
thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi
người
Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”.
- .Với những cảm nhận tinh tế, mới
mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng
thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu
tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi
/Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho
người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình
yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng.
-Không chỉ khẳng định mối quan hệ
gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của
đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước :
“Mai này con
ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Có thể nói, ba dòng thơ
đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng
của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những
tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện
tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.
- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng
của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người :
“ Em ơi em Đất nước là máu xương của
mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
=> Bằng giọng văn trữ tình kết hợp
với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết - phải
biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân”
…nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng lànhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng
của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận
nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình -
dặn người của nhà thơ.
III/ Kết
bài:
- Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ
hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm .Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà
thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước.Từ
đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.
- Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy
được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ.
Cảm nhận của anh/ chị về đọan thơ
sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm :
“ Em ơi
em
Hãy nhìn rất xa
……………………
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
Hướng
dẫn làm bài
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm
(1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng
luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan
trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch
sử và truyền thống dựng nước và giữ nước :
“ Em ơi
em
Hãy nhìn rất xa
……………………
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
II/ Thân bài :
- Thật
vậy, sau khi đã khẳng định
vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa muôn màu muôn vẻ,
nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò
của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.
+ Trước hết, nghĩ
về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là
những con người vô danh bình dị.Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm
dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và
trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”:
“ Nhiều
người đã trở thành anh hùng
Nhiều
anh hùng cả anh và em đều nhớ”
+ Nhưng cũng có hàng triệu , hàng
triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống , họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt
tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “
làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của
nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân :
“Khi có
giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày
giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…’
+ Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân
như “hạt lúa, ngọn
lửa, giọng nói, tên xã tên làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dịđó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn
minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng
sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất
nước thân yêu của mình.
“Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng
cây hái trái
Có
ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội
thù thì vùng lên đánh bại”.
Ở đây, nhận thức về đất nước và
lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi
nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất
nước.
- Tóm
lại, với hình ảnh thơ
giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đọan thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ
của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân
dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn
của mình.
III/ Kết bài :
- Chủ đề về đất nước, quê hương không
phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam.Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm
đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi…Nhưng,có thể nói
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn
của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc.
- Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức
của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào
lối sống ngoại lai .Từ đó, đọan thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào
hùng trong mỗi chúng ta.
Cảm
nhận đọan thơ sau đây trong đọan trích “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm
“ Để
Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
…………………………………………
Gợi
trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
Hướng
dẫn làm bài.
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm (1943)
thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc
chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng
tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu
sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên
cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân :
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
…………………………………………
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông
xuôi”.
II/ Thân bài :
- Có thể nói, “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ
về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để từ đó, nhà thơ khẳng
định : Nhân dân chính là người – là chủ thể .làm nên đất nước.
1/ Trước hết, câu thơ mở đầu đọan
thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản
trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây
chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên
cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình-
chính luận.
- Nhân dân sáng tạo
ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng chính là đã sáng tạo
ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao
có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của
truyền thống nhân dân :
“Dạy
anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn
lội
Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả
thù mà không sợ dài lâu”.
+ .Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương của
người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào “Yêu em từ thuở trong nôi,
Em
nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
+ Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩahơn
cả vật chất ngàn vàng.Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu
ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc :
“ Cầm
vàng mà lội qua sông
Vàng
rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của
trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của
truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi
tinh thần quật khởi của dân tộc :
“ Thù
này ắt hẳn còn lâu
Trồng
tre nên gậy , gặp đâu đánh què”
Từ đó
có thể khẳng định: nhân dân
đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tinh cách, lẽ sống tâm hồn
mình. Có thể nói,
+ Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã
nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn
hóa đất nước bằng tất cả
tình cảm trân trọng và yêu thương .
+ Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ
thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Bội Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân
trong lịch sử.Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới.
III/ Kết
bài :
- Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận,
ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ
những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận
thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.
- Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho
mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm
nay.